Một âm thanh lạ khuấy đảo sự yên tĩnh của căn phòng. Tôi mở cửa sổ để có thể nghe thật kỹ thứ âm thanh này. Tiếng chuông, rõ ràng là nó. Ngày hôm qua tôi cũng nghe thấy tiếng chuông, khi ấy tôi muốn gọi Đán dậy nhưng gã đã ra khỏi phòng. Quả chuông có vẻ không lớn lắm, hoặc cũng có thể nó được đánh ở rất xa nên tôi chỉ thấy văng vẳng. Nhưng nếu là như vậy, tại sao có lúc tôi nghe thấy có hàng chục quả chuông cùng đánh lên. Ít phút trước tiếng chuông vang rất gần, tôi nghe như nó đang vọng từ dưới đường. Những tiếng chuông cũng có sự khác nhau, không hoàn toàn là từ một loại chuông đánh lên. Có tiếng với âm vực lớn như đánh từ chuông nhà thờ, có lúc thì lanh canh như tiếng chuông gió, thậm chí tôi còn nghe thấy một tiếng vang inh ỏi và rè rè của loại chuông điện tử.
Ngoài trời rất tối, chiếc đèn pin trong tay tôi cũng chỉ soi được một đoạn ngắn. Gió thổi khá mạnh so với hai đêm trước. Tiếng chuông không hề bị át đi bởi tiếng gió, nó vẫn vang đều đều nhưng không theo một trật tự tiết tấu nào.
Tôi đóng cửa sổ lại và trở về giường.
...
Tiếng chuông vẫn văng vẳng trong đầu. Những suy nghĩ mơ hồ đã vẽ ra một hình ảnh để nhập vào tiếng chuông. Đó là một buổi tế lễ ngoài trời, vị pháp sư với áo quần lòe xòe, mặt mũi tô vẽ đủ thứ màu sắc đang vung một cây gậy dài gắn nhiều quả chuông. Thứ âm thanh truyền ra từ những quả chuông cao vút nhưng trầm đục và nỉ non như tiếng hồn ma vọng từ cõi A Tỳ.
Cú vấp khiến tôi ngã bổ xuống đất. Có lẽ tôi đã vấp phải một cành cây hoặc một viên đá trồi lên dưới đường đi. Chiếc đèn pin, cũng là ngọn hải đăng soi đường duy nhất của tôi đã tuột khỏi tay và lăn lóc đâu đó. Bóng tối vẫn nắm đại quyền nên tôi chỉ có thể đứng loay hoay một chỗ. Lúc ngã tôi có nghe thấy một tiếng xoảng, có lẽ chiếc đèn pin đã văng vào chỗ nào đó và đã hỏng.
" CÓ AI KHÔ...........NG !"
Tôi hô lớn nhưng không thấy lời đáp lại. Thực ra dù cổ họng tôi có đủ lớn để hô nhiều lần như vậy thì có lẽ sẽ chẳng ai nghe thấy. Tiếng chuông vẫn còn vang lên và nó đã nghiền nát tiếng nói của tôi. Sẽ không có một ô cửa nào sáng đèn, cũng chẳng có một ánh trăng nào hé ra để tôi có thể nhìn thấy, chút nào đó con đường trở về nhà trọ. Cú ngã ban nãy không làm tôi chảy máu nhưng đã khiến tôi tỉnh táo hơn. Với những gì còn lại trong trí nhớ thì có lẽ tôi đã ở ngoài đường một lúc lâu. Tôi không rõ tại sao mình lại ở đây, để rồi vấp ngã, đánh mất cây đèn pin nhưng tôi biết mình đã mở khóa. Tôi không có nhiều sức mạnh như Đán nhưng tôi lại có chút thủ thuật về mở khóa. Đừng nói là ba ổ khóa, ngay cả khi ông chủ nhà có lắp loại khóa chống trộm hoặc cửa mật mã thì cũng không làm khó được tôi. Chỉ có điều tôi không biết phải trở về thế nào. Cứ lang thang mãi trong đêm tối thế này thì chẳng hay ho gì.
Tôi thận trọng từng bước đi để không bị ngã. Trước tiên tôi phải sờ được vào tường của một ngôi nhà, rồi tôi sẽ men theo bức tường tìm tới cửa chính. Tôi sẽ ngồi trước cửa cho tới trời sáng. Nếu ngôi nhà đó có nuôi chó thì thật tốt vì hẳn nó sẽ phát hiện ra tôi và sủa vang cả thị trấn. Chỉ mong lúc đó tiếng chuông tạm dừng lại đôi phút để tiếng sủa có thể đánh thức chủ nhà.
Tôi vướng vào một vật lớn, nó chắn dưới chân tôi. Bàn tay tôi sờ thấy bề mặt thô ráp của một phiến đá. Đi thêm một quãng tôi lại vấp phải một phiến đá khác, lần này suýt nữa tôi vấp té. Cứ như vậy, tôi dọ dẫm một lúc lâu trong bóng tối. Những tiếng chuông nhỏ tạm ngừng lại, tôi định nhân dịp hét lên một tiếng lớn để có thể đánh thức một hộ dân nào đó, kể cả sau đó có bị nhiếc mắng, miễn là họ cho tôi một ánh đèn để có thể về được khu nhà trọ. Miệng tôi há ra và cứ há như vậy. Một tiếng chuông khác đã thế chỗ cho những tiếng chuông nhỏ. Lần này là tiếng của một cái đại hồng chung mà nhà chùa vẫn thường đánh vào sáng sớm. Tiếng đại hồng chung này khác hẳn với những tiếng đại hồng chung mà tôi đã từng nghe. Không hề có sự mênh mang, cũng chẳng có chút cảm giác nhẹ nhõm, thư thái khi lắng nghe tiếng chuông này. Thứ âm thanh này trùm xuống cả thị trấn và khiến bóng tối thêm dày đặc. Bước chân của tôi cũng vì vậy mà loạn cả lên, tôi chỉ biết mình đang đi chứ không biết mình đi thẳng, đi chéo hay đi vòng tròn.
Tiếng chuông chỉ vang lên một lần rồi mất hút vào bóng tối. Tôi vẫn đi trong đêm, đôi bàn tay huơ ra hai bên. Nếu trong tay tôi có thêm một cây gậy thì sẽ rất giống một hành khất mù.
Sự yên lặng chỉ kéo dài vài giây rồi tiếp tục bị xáo động bởi những tiếng chuông khác nhau. Tôi càng đi lâu trong thị trấn thì mật độ tiếng chuông càng dày. Khả năng xác định phương hướng của tôi đã hỏng và cặp chân của tôi đang bị tiếng chuông dẫn dụ. Trong lúc đang bước sang bên trái, một tiếng chuông khác đã vang lên khiến. Đôi chân tôi bước chệch sang một bên và đi theo tiếng chuông đó. Được một quãng thì tôi lại đi giật lùi vì đằng sau vừa có một tiếng chuông khác.
Tôi vướng phải một phiến đá khác. Thêm vài bước chân tôi lại chạm phải một phiến đá, rồi một phiến đá. Tôi ngã bổ chửng.
Tay tôi chạm thấy một vật hình chữ nhật. Tôi nhặt vật đó lên và thở phào một cái khi ngửi thấy mùi diêm sinh. Rất nhanh nhẹn, tôi mở bao diêm ra rồi rút ra một que.
Tôi đánh lửa. Ánh lửa cháy rực trên thanh gỗ. Lửa chỉ chiếu sáng được một khoảng nhỏ nhưng tôi vẫn thấy hạnh phúc vì cuối cùng đã vớ được một tấm ván, khả dĩ có thể đưa mình vào đất liền.
Cái phiến đá đã làm tôi vấp ngã đã lộ nguyên hình. Nó hoàn toàn không phải phiến đá hay cột mốc gì, mà là một bia mộ. Tấm ảnh đặt nơi ngôi mộ là của một ông già, gương mặt lão rêu đã phủ xanh, các đường nứt trên bia đá khiến gương mặt đó không còn toàn vẹn. Huơ cây diêm ra xung quanh tôi thấy các bia mộ khác. Ở nơi tôi đứng có tới bốn bia mộ và chúng nằm ở bốn hướng khác nhau. Bốn tấm bia đổ nát bo chặt tôi ở giữa, tôi thấy mình như bị mai phục và rơi vào một tình thế hiểm hóc mà không cách nào phá vây được.
Bốn gương mặt. Một đã rêu phong, một thì biến dạng bởi các đường nứt vỡ, một thì hai cặp mắt trợn trừng như của người còn sống, một thì ám đầy bụi bặm, chỉ lộ ra cái miệng móm mém đang mỉm cười.
Cây diêm tắt phụt đi, tôi chạy điên loạn trong bóng tối, tiếp tục va quệt vào hàng chục bia mộ. Tiếng chuông vẫn va lanh canh, hình như có tới hàng chục quả chuông cùng được đánh lên.
Thêm một bước chân hụt, tôi lảo đảo và ngã đập lưng vào một tấm bia. Tôi nghe thấy một tiếng thì thầm, dường như nó vang ra từ tấm bia mà tôi đang tựa lưng vào. Đó là tiếng nói. Không thể sai được, dù nó không thật rõ ràng nhưng đó đúng là tiếng của một con người.
Tôi rút que diêm thứ hai và đánh lửa. Ánh lửa phụt lên, đốm lửa đã phá vỡ một phần nhỏ của bóng tối và giúp tôi tiếp cận được với cái tiếng nói đó.
Vẫn là một tấm bia, giống như hầu hết mọi tấm bia ở đây.