Vậy là chồng chị Tư chết thiệt rồi. Nghe đâu chết vì ăn nhầm mấy cái nấm độc gì đó. Cũng chưa biết rõ nữa. Nhưng biết chắc là nhà chị không lo nổi đám ma.
***
"Thôi thì hàng xóm người góp một ít, mua cho anh Tư cái hòm coi cho được". "Ờ... Hay là mình xin tiền mấy ông Hội Chữ thập đỏ hay quyên tiền chỗ mấy doanh nghiệp ngoài chợ giùm chị Tư, coi ra cũng được một mớ à!"... Những người hàng xóm đang ngồi bàn tán ở quán cà phê không xa nhà chị Tư, mắt không rời ngôi nhà. Lúc nầy, thi thể anh Tư vẫn chưa được chở về.
Nửa tiếng sau, chiếc xe cấp cứu của Hội Chữ thập đỏ đưa anh Tư về nhà trong tiếng hú hú ghê rợn. Anh nằm thanh thản trên băng ca, mặt còn ngước lên nền trời trong vắt. Trên cái mặt xanh tái ấy nổi lên những đốm đỏ đỏ đã nhạt. Mắt anh không nhắm nghiền mà hơi hé ra. Những mụ hàng xóm khẽ bàn tán: "Chết không nhắm mắt!". "Phải rồi, tự dưng ăn bậy rồi chết, tới chết mà cũng không biết mình chết vì cái gì thì làm sao nhắm mắt được". Người cãi lại: "Bậy, hi hí ra thôi chứ không nhắm hồi nào".
Vài ba người đàn ông mặt nhớn nhác vội vã chạy đến khiêng băng ca vào nhà, vội vã đặt xác anh Tư xuống chiếc giường đã được chuẩn bị sẵn. Chị Tư chạy đến ôm ghì lấy chồng, giật giật. Chị khóc rất lớn, vùi mặt vào cái lồng ngực rắn rỏi đang lạnh ngắt kia. Vài người thấy chị cứ ôm xác chồng sợ anh đau đớn nên gỡ tay chị ra, nói mấy lời an ủi: "Để anh ấy yên nghỉ chị à!". Một lúc khá lâu sau, chỉ khi thật sự bình tâm lại chị mới vội vàng lo việc lau mình, thay đồ cho anh. Tấm mền mỏng được kéo lên, đắp ngang người anh Tư.
"Chị mong cho chồng mình đỡ phải chịu cảnh lạnh lùng nơi chốn âm ty chăng?". "Mà âm ty hay thiên đàng, cũng chưa ai biết được?". Thôi thì cứ như anh bạn kế bên: "Đừng nói ba xàm nữa cha nội!". Trong nhà, mọi việc vẫn diễn ra một cách lặng lẽ, u uất.
Hàng xóm không nỡ nhìn vào mặt đứa con còn bé xíu của anh. Ngơ ngác. Sợ hãi. Nó không biết người ta đang làm gì cha nó. Cha nó ngủ và người ta đến chọc cho thức, có lẽ chỉ vậy! Bà Chín mẹ của chị Tư nãy giờ không nói nhưng mắt đã rơm rớm. Cái chết của con rể quá bất ngờ với bà. Tiếng sấm chớp rền vang ở một nơi nào đó xa xôi lắm đang đánh ầm vào đầu bà. Tiếng sấm ở đâu? Nơi xa xôi nào? Bà cũng không biết. Trời hôm nay rất đẹp, không có mưa giông, nhưng trong đầu bà lại nghe rõ mồn một những thứ thanh âm đổ nhào đó. Bà quỵ xuống giữa đám đông, cái đầu bạc phếch gục xuống chừng như sắp ngất. Nhưng bà không ngất. Hai hàng nước mắt lúc nầy đã chảy dài, đánh độp xuống rồi ngấm vào đất. Cả những giọt già nua ít khi xuất hiện và lần nầy chỉ dành cho anh Tư, nhưng chúng cũng có số phận như anh: âm thầm, bất chợt và lặng lẽ kết thúc. Đến khi chị Tư choàng lên đầu bé Ngọc tấm khăn sô trắng, bà Chín mới đứng dậy, ôm chầm lấy nó, nấc lên nghẹn ngào. Tội nghiệp, con nhỏ mới bốn tuổi.
Cái sân không rộng mấy trước nhà chị Tư ngày càng đông người. Hàng xóm ở gần, ở xa đến viếng anh, tiễn một người quen về chốn lạ. Ông Ba già chuyên tụng kinh cầu siêu cho các đám ma nay đã sắp bước sang tuổi bảy mươi còn lội bộ hơn cây số xuống đây để tụng kinh cho anh. Ông nói: "Tại tao thương nó, nghèo mà biết chịu khó, cũng tội. Mà, cái số!". Xung quanh chỉ có tiếng khóc và vài câu rất nhỏ lọt ra từ miệng của những người hàng xóm đến phụ giúp trong đám. Tiếng chuông mõ vẫn đều đều. Phía ngoài xa kia, những con sóng cứ đánh ì ầm vào bờ đất ven sông, chừng như cái bờ đất nhỏ ấy sẽ sụp xuống và trôi theo con sóng bất cứ lúc nào.
Anh chị Tư dọn đến xóm nầy chừng vài năm nay. Sau khi cưới nhau không bao lâu, hai vợ chồng cùng người mẹ vợ rời quê, dắt díu nhau đến xứ nầy làm ăn. Cái xứ mà đến tên nghe cũng lạ: Sóc Chét. Từ trước đến giờ chị Tư chưa bao giờ nghe nói về nó chứ đừng nói là nghĩ đến một ngày nào mình sẽ đến nơi nầy. Nơi đó ra sao? Cả anh chị đều không biết. Vậy mà cả gia đình đã gắn bó một khoảng thời gian khá dài trên mảnh đất nầy. Để rồi hôm nay, chính mảnh đất nầy lại tiễn anh vào lòng nó. Tám năm cho một cuộc sống chật vật. Tám năm cho cái nhà nhỏ lụp xụp, hay nói đúng hơn là cái chòi lá, và một đứa con. Tám năm cho một chữ nghèo. Dường như, anh chị Tư là gia đình nghèo nhứt xóm Sóc Chét nầy. Mà, nghèo thật! Đến cọng rau, con cá là thứ dễ kiếm ở vùng mênh mông trời nước nầy, vậy mà đối với gia đình anh cũng là chuyện khó. Chồng phụ hồ, vợ cắt cỏ mướn, nhà còn một mẹ già và đứa con nhỏ, không có tài sản gì hết. Đó là tất cả những gì người ta biết về anh.
Ai ai cũng dụi mắt liên tục. Không phải cay vì khói hương tràn ngập khắp căn nhà lá ọp ẹp mà đắng lòng cho chị Tư cùng người mẹ già và đứa con xấu số. Bốn giờ chiều, người ta đưa linh cữu anh về với đất. Cũng lặng lẽ như cái ngày anh đến đây. Sau khi mọi việc xong xuôi, hàng xóm còn nán lại chia buồn với gia đình một lát rồi nhà ai nấy về. Buổi tối đó, căn nhà nhỏ của chị vốn đã ảm đạm nầy nay lại còn ảm đạm hơn. Ánh sáng đỏ le lói phát ra từ cái đèn dầu nhỏ xíu trên bàn thờ anh Tư. Con Ngọc cứ khóc riết. Nó không biết gì, nhưng có lẽ đông người quá, ngột ngạt quá làm nó sợ. Mà không chừng, nó thấy mẹ và bà ngoại nó khóc nên khóc theo cũng nên?
Vậy là lại hết một kiếp người...
***
Xong chuyện tuần thất cho anh Tư cũng hơn hai tháng. Lúc nầy, gia đình chị Tư càng túng quẫn hơn. Tuy hàng xóm có quyên góp được chút tiền, Hội Chữ thập đỏ cũng cho được một ít, nhưng có thấm vào đâu. Đã mấy ngày rồi cả nhà chỉ húp cháo với nước mắm. Có bữa nào đổi món thì cũng chỉ được ăn cơm với mớ rau bình bát, rau dền, đọt nhãn lồng... hái ngoài sau hè. "Tội nghiệp má, già rồi, cứ ăn vầy hoài sao chịu nổi" chị nghĩ mà thương cho cái thân hèn mọn của mình. Giờ đây, hình như chị nhận ra rằng tim mình còn đập, máu vẫn còn chảy, nhưng lòng mình thì đã chết tự bao giờ rồi.
Bà Chín đang nướng khô ngoài sau. Bữa nay anh Thân bên hàng xóm đem qua cho mấy con khô, cũng đỡ. Nhờ anh Tư lúc còn sống có tình có nghĩa với xóm giếng nên bây giờ họ cũng sẵn tay giúp chị trong lúc khó khăn nầy.
Chị đứng nép bên vách, khẽ nhìn người mẹ già của mình, trong đầu cứ cuộn lên biết bao suy nghĩ. Tóc má bạc nhiều vậy hồi nào vậy trời? Mới ngày nào dọn đến đây, bà chỉ sáu mươi, tóc mới bạc lâm râm vài sợi, vậy mà bây giờ đã trắng phếu.