Cả chiều bọn tôi không nói chuyện với nhau. Đán chỉ nằm trên giường, ít lâu lại trở mình vì khó ngủ. Tôi lấy chiếc điện thoại, thử nhấn vài cuộc gọi. Phía đầu dây vẫn chỉ có tiếng rè rè đáp lại. Ngoài cửa sổ vài người dân đã trở về nhà sau một ngày làm việc, mặt mũi ai cũng phấn khởi nhưng chẳng có lấy một cuộc chuyện trò nào vang lên.
Cái nghĩa trang đó tôi vẫn nhớ rõ. Đây có lẽ là nghĩa trang duy nhất của thị trấn nên được xây dựng rất cẩn thận. Toàn bộ nghĩa trang được bao bọc bởi một bức tường đá ong dày. Cánh cổng ra vào được làm bằng thép nhưng vì đã quá nhiều năm nên đã rỉ sét cả. Ổ khóa của cánh cổng cũng đã bị bào mòn. Sự rỉ sét ăn rỗng lỗ khóa và phá đi cấu tạo nhằm khớp với chìa khóa. Nghĩa trang không có đường hậu nên tôi luôn thắc mắc người ở thị trấn sẽ vào bằng cách nào mỗi khi cần viếng mộ.
Cửa vào bị bít nhưng tôi vẫn có thể vào bằng cách leo qua tường. Lúc đó tôi không vào hẳn vì vướng chiếc xe đạp ở ngoài. Tôi chỉ bám trên tường, cheo leo một lúc lâu. Bên trong quả rất rộng, có kích cỡ của một cánh đồng. Đất ở đây nhìn rất bằng phẳng, cỏ mọc rậm rạm nhưng hầu hết đều là cỏ chết. Các ngôi mộ xây trồi lên trên và được sắp xếp rất gọn gàng. Các ngôi mộ xếp theo từng hàng thẳng tắp, có một khoảng trống vừa đủ giữa các ngôi mộ để có thể đi lại. Có lẽ do tục lệ ở đây nên các ngôi mộ được xây cất tương tự nhau. Chúng không xây thành khối chữ nhật, cũng không có mái che, tất cả chỉ là những cái bia bằng đá. Kích thước và độ lớn của những tấm bia bằng nhau, lại được sắp xếp ngay ngắn nên nhìn từ đằng xa trông chúng như một đội quân đang đứng chào cờ.
Cái nghĩa trang với bạt ngàn ngôi mộ khiến tôi thấy hứng thú và muốn được tham quan. Nếu tôi thuyết phục được Đán thì có lẽ đây sẽ là chuyện đáng nhớ nhất mà tôi có thể đem ra kể khi gặp lại nhóm anh cả.
"Vấn đề là ở chỗ không thể để người của thị trấn biết." – Tôi lẩm bẩm.
Đán tiếp tục trở mình. Ít lâu gã lại vùng dậy, vò đầu, định nói điều gì đó nhưng miệng chỉ há nửa chừng liền ngậm lại.
Mặt trời chỉ giữ lại chút ánh sáng cỏn con, vừa đủ để đốt lên một ngọn hoàng hôn ngắn ngủi. Nó sẽ chơi vơi trên bầu trời ít lâu nữa rồi mới hoàn trả thị trấn cho bóng đêm và bắt đầu một chuyến đi dài. Đám trẻ con kết thúc trò chơi rượt bắt, những người lớn thì cũng đã trở về nhà. Muộn rồi và họ cần chuẩn bị cho một bữa tối.
"Ông ấy gọi tao !" – Đán vùng khỏi chăn và gào tướng lên.
"Mày dậy rồi à, hơn sáu giờ rồi, chuẩn bị đi ăn thôi." – Tôi nói.
"Ông ấy đang ở quanh đây, chắc chắn là thế."
Tôi gãi gãi đầu, định bụng nhiếc mắng gã vì cái thái độ kì quặc từ sáng tới giờ nhưng khi nhìn gã tôi đã phải hạ giọng. Cái khuôn mặt vuông vức đó nhăn nhúm lại, cặp môi khô ran và nứt nẻ như thiếu nước, có lẽ vì do tư thế nằm hoặc vì vò đầu nên mái tóc rủ xuống, che khuất một phần khuôn mặt. Cái quầng thâm trên mặt gã dường như lại loang rộng ra, phủ tới sống mũi, đôi mắt mở rất to, hệt như muốn trồi hẳn ra ngoài. Tia mắt đó tôi đã nhìn qua, từ rất lâu. Ngày hôm đó tôi tìm thấy gã trong một công trường đã ngừng thi công. Cũng như bây giờ, gã co ro vào một góc, cặp mắt mở lồi ra, chỉ khác là khi ấy trên người gã chi chít lỗ thủng. Các vết thương không sâu tới mức chạm vào ngũ quan nhưng mỗi cử động mạnh của gã đều khiến máu trào ra. Phải rất khó khăn tôi mới tới gần được Đán vì hễ thấy tiếng động gã lại chạy đi. Thứ lúc đó gã có thể nương tựa là một cái hốc nhỏ trong công trường. " Ông ấy cắm rất nhiều...ống sắt vào người tao. Tao đau lắm."- Gã lặp đi lặp lại câu nói đó trong hàng giờ. Kể cả khi cuống họng bắt đầu khô rát, câu nói không liền thành một từ ngữ mà võ thành các chữ cái thì gã vẫn không dừng lại. Tôi thấy máu trào ra khi gã ho.
Nhiều lần Đán có ý định lóc các vết sẹo trên cơ thể bằng một con dao thật bén. Phần bẹn cũng có sẹo và gã cũng từng nói với tôi rằng sẽ chẳng ngại gì nếu lưỡi dao có kết liễu sự cộng sinh giữa gã và tên đày tớ đó. Nhưng gã đã không làm vậy.
Đán đứng dậy, vừa đi gã vừa lẩm bẩm " Ông ấy gọi tao...."
" Mày sao vậy, ông ta đã chết từ lâu rồi."
" Ông ấy gọi tao"- Đán gào lên- " Ông ấy gọi tao..."
" Cứ ngủ một giấc đi, rồi ngày mai tao và mày sẽ đi khỏi đây."
Đán đứng ở giữa nhà, im lặng thật lâu.
Tôi không mang theo thuốc ngủ nên có lẽ sẽ phải trông chừng gã suốt đêm.
" Máy nghỉ ngơi đi, tao đi mua cơm." – Tôi mặc quần dài vào rồi cầm ví theo. Để an tâm tôi đã khóa cửa lại.
Cửa đã bị phá và Đán đi đâu mất. Tôi hỏi mấy người phòng bên thì chỉ nhận được những cái lắc đầu. Ông chủ nhà không biết việc này vì lúc đó đang ở ngoài đường. Ông ấy không trách tôi về việc cửa hỏng nhưng đã khuyên tôi trở về phòng vì trời cũng sắp tối.
Đồ đạc của Đán vẫn ở trong phòng, xe của gã vẫn đang nằm dưới nhà xe. Tôi có hỏi mấy người ngoài đường thì chỉ nhận được những cái lắc đầu. Gã không có ngoài cánh đồng, cũng không có ở các khu đất trống cách khu nhà hơn chục cây. Tôi chỉ biết rằng gã đã bỏ đi, manh mối là cánh cửa bị đạp văng ra.
Người ở thị trấn không có bất cứ hoạt động nào khi trời tối. Mọi cửa nẻo đều đóng chặt. Tôi không rõ lịch hoạt động của thị trấn trước giờ vẫn vậy hay vì lý do gì khác mà họ kiêng kỵ việc ra đường buổi tối. Nhưng dù là như vậy họ cũng không nên cấm đoán khi mà tôi chỉ là khách thuê phòng. Nếu vì lý do an ninh thì tôi chưa thấy ai nói về việc có thảo khấu lục lâm, nói là có chó sói cũng không phải vì thị trấn không đặt trong rừng.
Mới tám giờ mà trời đã tối mịt. Mây đen ở thị trấn này nhiều hơn những nơi khác. Có vẻ như để tạo được sự dày đặc tới mức ngay cả một vệt sáng nhỏ nhoi nhất của ánh trăng cũng không lọt nổi qua thì đã phải có hàng tầng lớp mây chồng lên nhau. Những khối mây đen bện vào nhau và tạo thành một cái kén khổng lồ để có thể chứa trọn cả thị trấn.
Tôi muốn qua phòng nên cạnh để mời vài người chơi mấy ván bài để giết thời gian nhưng các phòng đều đóng cửa. Mặc cho tôi có gõ cửa mạnh tới đâu họ vẫn không ra mở cửa. Đèn trong các căn phòng đều tắt nên tôi nghĩ họ đã đi ngủ cả, chỉ kì lạ là tại sao phòng nào cũng hạ đèn sớm như thế.
Tôi phải chốt cánh cửa từ bên trong để nó đỡ bung ra. Ông chủ nhà muốn thay cửa cho tôi nhưng tôi từ chối và hẹn lại vào sáng mai.