Đoàn tàu chạy qua một đồng cỏ rộng mênh mông. Những con bò lững thững nhai những bụi cỏ khô héo cuối cùng còn sót lại của mùa mưa năm trước. Cậu nghe nói ở đây mùa này hay có hạn. Những đàn bò này sẽ đến đồng cỏ khác trong vài ngày tới, và nếu may mắn có cỏ, chúng sẽ tồn tại qua vài ba mùa nữa trước khi bị đẩy vô trạm giết mổ gia súc tập trung thị trấn, còn lỡ cánh đồng chúng tới chỉ còn chân cỏ, lũ người chăn bò sẽ khóc tiếng Ả Rập.
***
Cậu nghe nói hồi xưa miền Tây tới mùa lũ người ta cũng len trâu đi kiếm cỏ, sớm thì trâu sống cả đàn, trễ thì rớt nước mắt ngồi nhìn trâu chết dần dần.
Nhưng cái đó là chuyện hồi xưa, giờ cuộc sống đủ hiện đại để người ta không phải len trâu qua những cánh đồng ngập đầy nước. Hồi xưa cậu cũng nghĩ mình sẽ được dạy ngay trong Sài Gòn, nhưng giờ thì cuộc đời đủ nham hiểm để bắt cậu đi dạy học xa nhà vài trăm cây số.
Tốt nghiệp loại giỏi cao học Đại học Sư phạm. Cậu tưởng tấm bằng tốt nghiệp của cậu mang đi đâu người ta cũng nhận thì, bà giám đốc Sở Giáo dục thành phố, vợ của cha cậu, điệu đàng tiệc tùng với mấy ông hiệu trưởng của những trường tiểu học lớn, âm thầm gửi tin nhắn tới vài ông hiệu trưởng các trường tiểu học nhỏ. Tất cả những việc đó đều xoay quanh một vấn đề mà bà nghĩ hết sức quan trọng đối với lòng dạ đàn bà, không cho cậu dạy ở bất kỳ trường tiểu học nào trong thành phố. Vì cậu là con mẹ cậu, mà mẹ cậu là tình nhân cũ của chồng bà ta, và vì cha cậu đã chết, không ai đủ khả năng cản bà ta làm chuyện đó.
Vậy là cậu bị đẩy ra một trường tiểu học ở Hà Tĩnh. Một trường tiểu học miền núi với vài ba giáo viên ở hoài ở mãi trong cơ cực, những đứa học trò người dân tộc đi học bữa đực bữa cái, trường hay bị lũ quét, và học bạ tụi học trò bị phơi tới bong nhàu giấy. Đó là những gì cậu biết về cái trường mà cậu sắp tới. Tẻ nhạt và cực khổ, Khánh báo trước khi cậu đi ba ngày, và vẫn mong cậu ở lại Sài Gòn làm gia sư, lương không thấp, nhưng việc thì rất nhàn.
Cậu định ở lại, nhưng cậu chắc bà giám đốc sẽ kiếm trò chơi mình, dù biết đi đâu bà ta cũng có thể kiểm soát. Lưỡng lự, rồi cậu ra siêu thị mua cái ba lô mới, dọn đồ, mua vé xe lửa, và đi.
***
Anh nhân viên phòng giáo dục Vũ Quang nhắn cậu ngán thì cứ về, ở hoài cũng chẳng sống nổi khi đưa cậu lên xe thồ đi từ thị trấn Vũ Quang xuống Đức Bồng. Chiếc xe lắc lư trên đường đất cứng và khói thuốc lào ngạt ngào của ông tài làm cậu choáng. Năm ngày đi tàu từ Sài Gòn lên Hương Khê, rồi bắt xe ôm từ Hương Khê lên Vũ Quang, tới phòng giáo dục được anh nhân viên đó đón, rồi đẩy nhanh về Đức Bồng. Cậu chưa từng nghĩ nghề giáo lại cực khổ tới vậy. Tâm lý học đường cậu tốt nghiệp loại giỏi, kiến thức thì khỏi nói, nhất nhì giảng đường chứ đừng nói tới hạng ba-tư. Vậy mà số phận lại đẩy cậu ngược ra Trung. Và một lần nữa cậu khẳng định cái chân lý "đời không như là mơ" đúng trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Xe thồ bỏ cậu dưới chân đồi. Cậu bỏ bộ một cây số nữa để lên đỉnh đồi và thả xuống bờ dốc bên kia. Trường tiểu học bản Nạm Kha nằm lặng lẽ dưới những đồi bắp trải dài theo hướng mặt trời lặn. Vài cô giáo ra đón cậu, toàn những người trẻ, chọc cậu:
- Trắng ri sao dạy nổi ở chỗ nì.
Cậu lúng túng với thứ ngôn ngữ mới, một cô giáo giải vây cho cậu, và cậu nghe rõ tiếng Sài Gòn, cái tiếng gần như cậu quên trong năm ngày nay:
- Em mới về chưa có quen, vô tắm rửa rồi lát ăn cơm.
Tối, khi ba cô giáo trẻ kia biến đâu mất, cậu biết cô giáo giải vây cho cậu là người Sài Gòn, hơn cậu hai tuổi, và tình nguyện ra đây dạy học, không ai bắt buộc, cũng không ai đưa đẩy. Chị tên Liên, dạy lớp năm, nhưng ngày mai lớp năm sẽ là của cậu dạy. Chị đưa cậu tờ giấy kiểu từ điển tiếng miền Trung:
- Em tốt nghiệp cao học thì dạy lớp cao đặng tụi nhỏ nó ra thị trấn học hành cho kịp người ta.
- Ở đây đông học sinh không chị?
- Năm khối, mỗi khối một lớp, hồi trước chị dạy lớp bốn, năm. Ba con nhỏ kia dạy một, hai, ba. Giờ em dạy lớp năm. Rứa là đều.
Chị cũng đã lai giọng địa phương, đã bắt đầu "rứa". Và cậu nghĩ nếu ở đây vài tháng chắc cậu cũng quen mô-tê-răng-rứa. Ý nghĩ đó làm cậu bật cười. Liên huýt cậu:
- Cười chị hả, ờ, ở lâu nó vậy đó. Mà mấy con nhỏ kia nhỏ hơn em đó, bởi rứa đừng có kêu nó bằng chị nghe. Nó chọc nữa đó. Một đứa tên Cúc, nhỏ đó trên Hà Tĩnh về, một đứa tên Mun, người Mường, ở đất này, học cô giáo rồi về đất này dạy luôn, nhà nó bên kia đồi bắp, còn một đứa tên Trúc, về một lượt với nhỏ Cúc, hình như cũng ở Hà Tĩnh.
Dưới bóng đèn tròn tỏa ra thứ ánh sáng vàng lờ mờ, Liên lẩm nhẩm thứ gì đó trong miệng, có thể chị tính chị đã về đây bao lâu, cũng có thể chị tính mai sẽ có bao nhiêu đứa học trò tới lớp, âm thầm và lặng lẽ. Ngoài vách dế vẫn kêu inh ỏi, và cậu nghe được lời của tụi côn trùng này nói với nhau:
- Ê, bữa ni có thầy mới về hử?
- Ừ, hình như ở Sài Gòn về, trắng lắm. Chị Mun nói hắn dạy không nổi mô.
- Ừ, trắng rứa răng dạy, tụi học trò quậy lắm.
- Đúng rồi, không nổi mô.
Liên đứng dậy và cắt ngang lời của lũ dế:
- Thôi ngủ sớm đi em, mai còn dạy.
Và mai sẽ là buổi dạy đầu tiên trong cuộc đời cậu.
Buổi sáng vùng cao đón cậu với vài cành nắng gãy khúc trên đồi bắp. Những đứa học trò mới của cậu hớn hở lật sách, và coi mãi những cái trang màu mè mà chúng nó thích. Cậu gõ thước, chúng nó quay lên. Mười giây, rồi cúi xuống.
Cậu nản buổi dạy đầu tiên.
Chiều, Liên ôm sổ qua giường cậu:
- Đi vận động mấy đứa nhỏ đi học, nhóc. Sáng thiếu mười hai đứa, năm bữa rồi. Chắc cha mẹ tụi nó bẻ bắp. Khổ, đi chục lần rồi chứ ít gì nữa đâu. Thôi, nhanh đi em, xa đó, tối về không kịp.
Cậu theo Liên vượt qua hai đồi bắp. Tới mỗi đỉnh đồi có thể thấy rõ đằng xa trống trải và cằn cọc. Người ta chặt hết ba phần tư cây ở chỗ thượng nguồn con suối. Giờ cậu hiểu tại sao học bạ của tụi học trò bị bong nhàu giấy.
Ông Ta Kao lắc đầu, hết vụ tui cho đi học, đang mùa, nó đi ai phụ tụi tui bẻ.
- Học trễ rồi sao theo kịp tụi bạn, nó ở lại lớp rồi sao. - Liên chống chế.
- Răng cũng được, học hành nhiều cũng mô có xài tới.
- Răng không xài tới, chú thấy Mun không, nó học xong đi dạy giờ nhà nó có đói bữa nào đâu.
- Không đói nhưng cũng mô có giàu.
Liên cự với ông Ta Kao lát nữa. Cậu mắc cười khi thấy đi phổ cập giáo dục lại giống đi đòi nợ. Cuối cùng, Liên thua ông Ta Kao, nhưng thắng bảy phụ huynh khác sau khi sải bộ qua những ngọn đồi đầy cỏ xước. Cậu không chắc, nhưng có lẽ lúc không có cậu, Liên đi một mình.
***
Tiếng dế lại tiếp tục thách thức cậu:
- Hồi chiều thầy giáo mệt lắm, chắc nản rồi.
- Răng chịu nổi mà không nản, chị Liên cực lắm, hắn không mần nổi như chị Liên mô.
Cậu bắt đầu ngán ngẫm ở cái xó xỉnh này. Tiếng dế, tiếng rừng, tiếng của những cây bắp thở trong đêm làm cậu sợ hãi. Cậu gom quần áo bỏ vào ba lô. Liên mở cửa, nhìn cậu và thở dài:
- Không cam nổi hả em. Thôi thì về đi, mà đợi sáng hẳn về. Giờ này thấy đường đâu mà đi.
Cậu nhìn Liên, và bắt gặp mình đỏ mặt. Cậu mắc cỡ với chị, với chính bản thân mình, hay với tấm bằng mà cậu nhận. Có thể là tất cả. Giờ đây, không gian tĩnh mĩnh hòa loãng tiếng dế phủ kín người cậu và người Liên. Cậu có xứng đáng với nghề giáo, có được như Liên. Chưa đâu. Nhưng tại sao Liên làm được còn cậu thì cứ phải trốn tránh. Cậu vớ một cái áo và nhét vào ba lô:
- Em cất đồ mới vô thôi chị.
***
Cậu đã quen với tiếng gió rừng thổi qua cửa lớp những lúc xế trưa. Và những đứa học trò cũng đã bỏ lại cái đam mê màu sắc để đi theo cái đam mê con chữ mà cậu truyền cho. Ông Ta Kao đã cho con gái đi học sau ba lần cậu và Liên cùng thuyết phục, ba lần đều có tiếng của cậu. Và đêm đêm lũ dế cũng đã bỏ cái điệp khúc "không nổi mô".