Thành giơ cho tôi xem chiếc nhẫn mà hắn đang làm dở. Đó là một chiếc nhẫn làm từ một mảnh máy bay Thành nhặt được đâu đó. Chiếc nhẫn thật đẹp, bóng loáng. Trên mặt nhẫn có khắc hình một đôi chim câu đang tung cánh bay về cùng một hướng; giữa có khắc hai chữ "T.H" viết hoa, lồng vào nhau. Nét khắc rất điệu đà, tinh xảo. Nhất là đôi bồ câu, tuy nhỏ nhưng thật có hồn, thật sống động. Tôi thầm thán phục tài năng của Thành. Quả thực, hắn có đôi bàn tay vàng.
- Thế nào? Đẹp không? - Thành hỏi.
- Tuyệt vời. Chắc Hiền thích lắm!
- Tối nay tao sẽ mang tặng cô ấy. Mày đi câu đi, để tao làm nốt.
Tối đó Thành về muộn. Mọi người đã ngủ, hắn lén đi nhẹ trên sạp đến chỗ tôi. Để nguyên cả quần áo ướt đẫm sương, Thành ôm chặt lấy tôi, không giấu giếm vẻ hạnh phúc.
- Thế nào? - Tôi hỏi.- Tuyệt vời. Nàng thích lắm. Nhưng... buồn cười quá- Làm sao?- Bọn tao nói chuyện rất lâu, đủ thứ hầm bà lằng. Đến đoạn "cao trào", trước khi tặng nhẫn cho nàng để nói "Anh yêu em", tao phải lựa thế, xoay chiều, lén đứng lên một hòn đá, rồi hôn...
Chúng tôi rinh rích cười. Cả tôi với Thành đều lùn, chỉ khoảng mét sáu, so với Hiền còn thấp hơn nửa cái đầu.
- Sao từ trước tới giờ mày không "trình bày" lại chọn thời điểm này mà tỏ tình? - Tôi hỏi.- Hôm nay là sinh nhật tao. Vẫn biết là tao không cần nói gì thì Hiền cũng cảm nhận được tình yêu mà tao dành cho cô ấy. Cũng như tao cũng cảm nhận được tình yêu Hiền dành cho tao. Thế nhưng... - Giọng Thành trầm xuống - Chiến tranh ác liệt quá. Sống chết chẳng biết thế nào mà lường. Tao lo. Tao linh cảm... Không! Tao sợ điều gì đó... - Thành nói lấp lửng, giọng trống vắng, xa xăm.
- Sợ đếch gì. Sống chết có số. - Tôi nói to, cố ý át lời Thành.
***
Đó là một ngày khủng khiếp nhất trong cuộc đời tôi. Từ sáng sớm tôi đã có mặt ở chòi canh, trên một ngọn đồi cao. Hôm ấy tôi được phân công trực báo động. Có nghĩa là tôi phải ngồi trên chòi, quan sát bầu trời thật kỹ, nếu có máy bay xuất hiện thì khua kẻng báo động. Tùy theo mức độ nguy hiểm mà ra hiệu lệnh để đồng đội biết mà sẵn sàng đối phó với giặc.
Đó là một ngày hè cháy bỏng như bao ngày hè miền Trung khác. Trời xanh cao, trong vắt. Nắng chói chang, rực rỡ. Tôi ngồi trong chòi gác, cái chòi làm bằng tre, lợp lá cọ, căng mắt dõi nhìn về phía biển Đông xanh ngắt, nơi mà lũ máy bay giặc thường bất ngờ xuất hiện. Im ắng quá. Suốt từ sáng đến gần trưa hoàn toàn không có mảy may tiếng động nào. Hoàn toàn không có tiếng ầm ì từ xa vọng lại. Bầu trời cao vòi vọi, xanh ngằn ngặt. Cả một ngọn gió cũng hiếm hoi. Im ắng đến ngờ! Từ ngày chiến tranh bùng nổ, bầu trời quê hương tôi ít khi được yên tĩnh. Tiếng máy bay gầm rú, tiếng bom đạn nổ uỳnh oàng... Cả ngày lẫn đêm, không lúc nào ngớt. Bởi thế, sự im lặng kéo dài hiếm hoi làm tôi cảm thấy áy náy, bồn chồn. Tôi càng chăm chú quan sát hơn.
Đêm qua tôi với thằng Thành nói chuyện rất khuya, tuy thế, giờ tôi vẫn không hề cảm thấy buồn ngủ tí nào. Tôi sợ. Tôi lo lắng điều gì đó bất trắc xảy ra. Và rồi, điều tôi nghi ngại đã đến. Tầm trưa, ba chấm đen bỗng xuất hiện trên bầu trời phía Đông Nam. Nó bay rất nhanh, đội hình tam giác. Ngay lập tức tôi phát hiện đó là ba chiếc F105, loại máy bay chiến đấu có tốc độ siêu âm. Tôi gõ kẻng báo động nhịp ba liền hồi. Ba chiếc máy bay nâng độ cao rồi đột ngột bổ nhào. 'Tặc... Tặc... Tặc" tôi nghe tiếng 12 li 7 của tiểu đội tôi bắn trả. Cả tiếng "Cà tùm... cà tùm" của pháo 37 li, bộ đội chủ lực cũng đồng hiệp lực. Ba chiếc máy bay F105 thi nhau bổ nhào. Tiếng bom nổ bình bịch âm i. Bom rơi rất gần, bởi tiếng nổ của nó nghe không chát chúa mà cứ bình bịch, i i.