Tôi lao xuống như điên. Lũ giặc đã bỏ đi, để lại cả một vùng trời đen đặc khói bụi. Mắt tôi cay xè, gần như mù, không thể nhìn rõ bất cứ thứ gì. Tôi lao về phía ụ pháo 12 li 7 theo trí nhớ của mình, thỉnh thoảng lại vấp vào những cục đá lổn nhổn trên mặt đất, ngã dúi dụi, đau điếng. Tiếng khóc than, gào thét của chị em làm bước chân tôi khựng lại, mềm nhũn. "Thành ơi! Long ơi! Đồng ơi! Vượng ơi!... Trời ơi... đâu cả rồi?!" Ụ pháo 12 li 7 của tiểu đội tôi bị san phẳng, chỉ còn lại khẩu pháo vẫn vươn nòng. Đằng đuôi, phía báng súng, một người vẫn đứng, hai chân bị lấp, còn lại một nửa thân người không đầu, hai tay vẫn cầm chặt cò súng. Xung quanh ụ pháo, chị em lăn lộn gào khóc, vừa thay nhau đào bới. Chỉ còn lại mình tôi là đàn ông duy nhất. tôi tự biết mình phải cứng rắn lên, không được khóc.
Phải rất lâu sau, chúng tôi mới tìm được hết thân xác đồng đội. Tiểu đội tôi có chín người, trừ tôi, còn lại đều hi sinh. Một quả bom đã rơi rất gần ụ pháo, tàn sát tất cả. Cái xác không đầu kia chính là thằng Thành. Nó được khẩu súng che chắn nên thân hình còn nguyên, nhưng cái đầu bị bay mất. Tôi loay hoay mãi không bế được Thành đặt xuống đất. Hai bàn tay nó bám quá chặt vào cò súng, không thể nào gỡ ra được. Một vài đồng đội đến giúp tôi, nhưng vẫn không xong. Chúng tôi không nỡ mạnh tay. Cuối cùng, tôi đành gọi Hiền. Hiền hầu như đã ngất xỉu. Tôi phải vừa động viên, vừa dìu Hiền đến bên Thành. Hiền dựa vào tôi, vừa khóc thảm thiết vừa nhẹ nhàng gỡ từng ngón tay Thành ra khỏi cò súng. Thật lạ. Thành như nghe được tiếng Hiền, như cảm nhận được hơi ấm từ bàn tay Hiền, những ngón tay của hắn mềm dần, rồi buông lỏng cò súng.
Tôi đặt Thành bên cạnh những đồng đội khác. Tám người, xếp hàng một, thi thể hầu như đầy đủ cả, chỉ duy nhất xác Thành thiếu cái đầu.
Cho mãi đến mịt tối vẫn không tìm thấy cái đầu của Thành, cuối cùng chúng tôi đành phải liệm xác. Sáng hôm sau, cả Trung đội bổ đi khắp nơi, lục soát mọi xó xỉnh, từng centimet một, rất kỹ, vẫn không tìm thấy cái đầu của Thành. Cuối cùng chúng tôi quyết định hạ huyệt. Một cái huyệt tập thể được đào ở lưng chừng ngọn đồi bạt ngàn hoa sim, bạt ngàn nắng và gió. Khi những cục đất đầu tiên thả xuống, Hiền bỗng lao xuống huyệt, ôm chặt lấy Thành. Phải vất vả lắm tôi mới cõng được Hiền lên, an ủi, động viên mãi Hiền mới chịu để yên cho chúng tôi lấp huyệt.
Những ngày tiếp theo trôi qua thật nặng nề, khủng khiếp. Chúng tôi vẫn ra mặt đường nhưng hầu như không ai nói với ai một lời. Bọn giặc giống như lũ chó, cắn trộm một miếng rồi dong thẳng, không quay lại, bởi thế không khí càng ắng lặng, nặng nề. Ái ngại nhất là thái độ của Hiền. Từ khi chôn thằng Thành và đồng đội, Hiền không hề khóc, không hề nói một tiếng nào. Cô đi lang thang như người mất hồn, ánh mắt hoang dại, tóc tai không chải, để xõa bù xù. Trung đội để Hiền ở nhà với tổ bếp, không cho ra mặt đường. Tuy thế Hiền hoàn toàn được tự do, không ai bắt cô phải làm bất cứ việc gì. Mọi người ai cũng thương Hiền, ai cũng nhìn Hiền với ánh mắt cảm thông, ái ngại.
Ngày thứ ba, buổi chiều, chúng tôi không ra mặt đường mà ở nhà chuẩn bị cúng tế, lễ mở cửa mả. Tôi ngồi trong nhà bếp, đang loay hoay tìm cách cắt cổ con gà trống đầu đàn, bỗng có tiếng thét rợn người. Tôi cảm thấy sống lưng mình lạnh toát, mồ hôi vã như tắm. Tôi nhận ra đó chính là tiếng Hiền. Buông vội con gà, tôi lao về phía nhà kho, nơi vừa phát ra tiếng thét. Cửa nhà kho mở rộng, trong thứ ánh sáng mờ nhạt của buổi chiều tà, tôi nhìn thấy Hiền nằm sóng soãi trên nền đất. Tôi loay hoay, chật vật, xốc ngửa Hiền lên để bế cô ra ngoài. Hiền ngất xỉu. Linh tính mách bảo cho tôi một điều gì đó. Tôi đảo mắt nhìn quanh. Bỗng tôi nhìn thấy cái đầu thằng Thành. Cái đầu ngồi chóc ngóc trên đống củi. Hai mắt vẫn mở trừng trừng.
... Lễ mở cửa mả trở thành lễ hoàn táng. Buổi chiều hôm đó chúng tôi đào huyệt tập thể lên, táng lại. Cái đầu thằng Thành đã trở về với thân xác của nó. Mệt nhọc và rùng rợn nhưng chúng tôi ai nấy an lòng. Giờ thì các đồng đội tôi đã có thể yên nghỉ vĩnh hằng. Ngôi mộ được đắp rất lớn và chúng tôi đã trồng lên rất nhiều bụi hoa sim. Loài hoa có màu tím ngát đến se lòng.
Sau bữa đó, Hiền lên cơn điên thực sự. Không tỉnh lại lần nào, suốt ngày Hiền chỉ múa hát, cười nói huyên thuyên. Tôi đau đớn nhìn Hiền. Đôi mắt đen láy, tình tứ của em ngày nào nay trở nên hoang dại, vô hồn. Mái tóc dài, đen mượt điệu đà bởi chiếc băng-đô được cài rất khéo, giờ xổ tung ra, bù xù, cáu bẩn, cài rất ẩu những bông hoa dại đủ màu.
Một tuần sau, bệnh tình của Hiền ngày thêm trầm trọng, chúng tôi quyết định đưa cô vào bệnh viện. Kể từ khi Hiền rời đơn vị, tôi như kẻ vô hồn. Tiểu đội tôi đã được bổ sung quân số. Lại đủ chín người như cũ, nhưng giờ sao tôi thấy mình lạc lỏng, bơ vơ. Tôi vẫn chiến đấu, vẫn ra mặt đường, vẫn hăng say công tác, nhưng có lẽ đó chỉ là con người máy trong tôi hoạt động, chứ không phải con người thực của tôi. Tôi không còn là tôi nữa. Cảm giác thật trống rỗng, chơi vơi... Rất may là tôi đã sớm thoát ra tình cảnh đó. Một biến cố lớn bất ngờ xảy ra: ngừng bắn! Sau thất bại chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" người Mỹ buộc phải tuyên bố từ bỏ chiến tranh phá hoại miền Bắc. Thật đau lòng và tiếc thương cho Thành và Hiền. Hòa bình lập lại chỉ sau cái chết của Thành một thời gian rất ngắn.
***
Chiến tranh kết thúc, tôi may mắn được đơn vị cho đi học văn hóa, rồi sang Liên Xô cũ học đại học. Cuộc đời tôi bước sang trang mới. Trước khi ra Hà Nội nhiều lần tôi đến thăm Hiền ở bệnh viện. Bệnh tình của Hiền có tiến triển, sức khỏe có khá hơn, tinh thần cũng tỉnh táo hơn. Tôi nói với Hiền, rằng tôi phải chia tay em để đi học xa, lâu ngày, Hiền cố gắng giữ gìn sức khỏe, chăm uống thuốc để mau lành bệnh...