Những năm học ở nước ngoài, tôi vẫn dõi theo Hiền. Mẹ tôi cho biết, Hiền đã đỡ nhiều, đã xuất viện. Một lần khác, mẹ tôi bảo Hiền đang học Cao đẳng sư phạm ở tỉnh nhưng rất khó khăn vì thỉnh thoảng vẫn phải nhập viện, bởi bệnh cũ tái phát. Đến sau ngày giải phóng 1975, Hiền về quê cùng với gia đình đâu tận miền Nam. Từ đó tôi không hay biết gì về Hiền nữa.
Năm 1979, tôi tốt nghiệp ra trường, trở về Việt Nam, với tấm bằng kỹ sư Địa chất hạng ưu. Thời gian đó, miền Nam vừa mới được giải phóng, đang rất cần những cán bộ như tôi. Bởi vậy, tôi xung phong đi Nam, nhận công tác tại Liên đoàn Địa chất số 8, thành phố Hồ Chí Minh. Tiếng là thành phố nhưng công việc địa chất thì chủ yếu là ở núi rừng. Một năm có hai mùa thì suốt cả sáu tháng mùa khô chúng tôi phải lăn lộn theo những tuyến lộ trình khảo sát thực địa khắp mọi nơi, từ miệt rừng sâu suối thẳm cho đến tận vùng hải đảo xa xôi. Tôi được cử làm đội phó đội thực địa miền Đông. Địa bàn của chúng tôi chủ yếu là miền núi rừng Đông Nam Bộ, bao gồm các tỉnh Đồng Nai, Thuận Hải, Lâm Đồng.
Trong một chuyến công tác tôi ghé thăm Hiền và gia đình cô đang sinh sống ở Thuận Hải, địa chỉ mà tôi lần mò kiếm được ở quê, trước khi vào Nam nhận công tác. Tiếp tôi là anh Hải, anh ruột Hiền. Chúng tôi đã quen nhau từ trước. Tôi đã gặp anh vài lần khi đến thăm Hiền ở bệnh viện. Hải kể tôi nghe, sau năm 1975, gia đình anh trở về đây, là nơi quê cha đất tổ, sinh cơ lập nghiệp. Thời gian đầu bệnh tình của Hiền có khá hơn, cô tiếp tục theo học Cao đẳng sư phạm. Vài năm sau, ba mẹ mất, bệnh của Hiền lại tái phát. Hải đưa Hiền đi khắp nơi điều trị. Hết bệnh viện này, bệnh viện nọ, đến thầy lang này thầy lang kia, bệnh vẫn không dứt. Hải phải bán dần nhà cửa, ruộng vườn để trị bệnh cho em. Về sau, có người mách ở miền Bảo lộc, Lâm Đồng có ông thầy thuốc người dân tộc Ka-ho chữa bệnh rất hay, Hải cơm đùm cơm nắm đưa em lên đó nhờ cậy. Đó là một vùng núi rừng sâu thẳm, chỉ có người dân tộc sinh sống. Họ tốt bụng và hiền lành, không khí lại tĩnh lặng, yên bình, nên Hải yên tâm để Hiền ở lại. Mỗi năm vài lần Hải bỏ công chuyện làm ăn ở nhà, lên Bảo Lộc thăm em.
Thời gian đầu bệnh của Hiền chuyển biến rất tốt. Sức khỏe của cô khá hơn, tỉnh táo hơn. Thậm chí, Hiền còn có thể mở lớp dạy chữ cho con em trong bản. Nhưng năm sau nữa, Hải lên thăm Hiền thì cô đã bỏ bản đi. Đi đâu không ai biết. Hải không biết tiếng Ka-ho, dân bản nói tiếng kinh không sõi nên càng khó hỏi thăm. Vả lại, đang là mùa mưa, việc đi lại trong rừng rất khó khăn, nguy hiểm, nên anh đành quay về, tự hứa với mình là đến mùa khô sẽ đi tìm em gái...
Tôi nói với Hải về đặc thù công việc của mình, xin địa chỉ cũ của Hiền, hứa với anh sẽ đi tìm Hiền, rồi chia tay.
***
Công việc của tôi rất bận rộn, cực nhọc và gian nan. Mùa khô chỉ có sáu tháng nên chúng tôi phải gấp rút hoàn thành kế hoạch thực địa, bởi khi mùa mưa đến, những cơn mưa rừng hung hãn sẽ ngăn bước chúng tôi.Bất cứ lúc nào có cơ hội tôi lại tìm kiếm tung tích Hiền. Đầu tiên, tôi đến Phòng Giáo dục huyện Bảo Lộc để hỏi han. Người ta bảo, phòng không quản lí giáo viên ngoài biên chế! Tôi hiểu mình đã bắt đầu bằng một sai lầm ngớ ngẩn. Và tôi biết, mình phải làm gì.
Một lần, tôi tìm đến bản Đak-Riên, là nơi mà Hiền đã lần đầu tiên đến để chữa bệnh và sinh sống. Dân bản cho tôi biết, cô giáo bỏ đi vì sợ người Kinh. Có nhiều người Kinh là cô giáo bị đau trở lại. Tôi hiểu ý của bà con. Bản Đak-Riên không còn heo hút, yên bình như xưa nữa. Người Kinh dưới xuôi lần theo dấu vết xe "Be" khai thác gỗ lên tận đây buôn bán, làm ăn với dân bản ngày một đông. Kinh nghiệm cho tôi thấy, cứ ở đâu có vết xe "Be" chở gỗ thì ở đó có người Kinh! Thảo nào, rất nhiều nơi đi qua tôi nhìn thấy dân bản biết nhậu rượu đế, ăn mì tôm ... cười nói oang oang. Tôi đoán Hiền bỏ đi là vì thế. Cô không chịu nổi tiếng ồn!
Theo lời chỉ dẫn của dân bản, tôi cố lần theo dấu vết Hiền. Đã có khi tôi gần như đã tìm được cô. Nhưng cả hai lần, khi tôi đến thì Hiền đã dời đi. "Lọt bốt-tam-hiu", "lọt", "lọt!..." - Đi rồi! Dân bản bảo tôi. Bản của dân tộc Ka-ho tọa ở những nơi rất xa xôi, heo hút. Có khi cả bản chỉ có một, hai nóc nhà. Có khi phải đi suốt mấy ngày đường ròng rã mới gặp một bản. Một lần, tổ thực địa do tôi phụ trách phải đi một chuyến lộ trình xa. Suốt năm ngày lặn lội trong rừng chúng tôi không gặp một bóng người. Đến ngày thứ sáu chúng tôi mới đến được một bản Ka-ho hẻo lánh. Đến được một bản làng nào đó trong lộ trình là niềm vui, niềm hạnh phúc lớn của dân địa chất chúng tôi. Ở đó chúng tôi sẽ được tiếp đón nồng hậu, tử tế. Không phải là sẽ có mâm cao cỗ đầy, vì dân bản vốn rất nghèo, quanh năm chỉ có củ mì, trái bắp. Nhưng chúng tôi sẽ được trò chuyện với người này người kia, sẽ được ngủ trên nhà sàn ấm cúng, chứ không phải ngủ võng, ngủ trên nền đất ẩm ướt trong rừng sâu.
Bản nhỏ, chỉ có ba nóc nhà, nhưng lại có giáo viên người Kinh dạy học. Chúng tôi đến, thầy giáo còn vui hơn cả chúng tôi. Đón chúng tôi, thầy bảo: "Trời ơi! Suốt hai năm nay em chưa thấy mặt người Kinh! Các anh đến, em mừng hết lớn..." Thầy giáo mang ba lô của chúng tôi vào nhà, căn nhà trệt duy nhất trong bản, vừa là nơi dạy học, vừa làm chỗ ở cho thầy. Thầy đon đả giới thiệu: Tên là Huy. Quê Nghệ An. Học Cao đẳng sư phạm Lâm Đồng. Ra trường về đây dạy học được hơn hai năm. Qui định hai năm các giáo viên phải về Phòng họp một lần. Đi họp mất bảy ngày đường, nên chưa đi lần nào. Bao giờ hết "hạn miền núi" về luôn thể. Thầy Huy bảo chúng tôi: "Các anh ở lại đây, tắm rửa, nghỉ ngơi rồi em thịt gà nhậu chơi". Tôi hỏi: "Thầy nuôi được cả gà?" - "Không. Trong bản này, con gà nhà ai mấy tuổi em cũng biết hết!" Chúng tôi cười ngất!
Tôi hỏi Huy về Hiền nhưng thầy không biết. Thầy bảo tôi: "Lâm Đồng đất rộng, nhiều bản xa xôi, hẻo lánh, khó liên lạc, chưa chắc Phòng Giáo dục đã nắm được con số giáo viên nữa là...Có điều, nếu cô Hiền dạy học thì dân bản sẽ rất quí mến, thương yêu. Họ biết, cô giáo đem ánh sáng, đem cái chữ đến cho con em họ. Bởi vậy, dẫu cô Hiền có đi xa đến đâu cũng không bị làm hại, làm nhục. Bọn phỉ Phun- rô ([1]) có thể giết bất cứ người Kinh nào trừ thầy, cô giáo"
Lời thầy Huy đem đến cho tôi phần nào cảm giác yên tâm. Công việc của tôi quá bận, bởi thế việc tìm Hiền liên tục bị gián đoạn. Ba năm sau, kết thúc đề án điều tra Địa chất khu vực Đông Nam Bộ, để các đồng nghiệp về thành phố trước, tôi ở lại Lâm Đồng, dành hẳn một quãng thời gian, quyết tâm tìm kiếm Hiền. Từ một đầu mối đáng tin cậy, là bản Ka- tiêng, nơi tôi biết chắc là Hiền đã từng sống và dạy học một thời gian, tôi bắt đầu lần theo dấu vết cô, theo chỉ dẫn của dân bản. Nhờ biết tiếng Ka-ho bập bẹ nên việc hỏi thăm, giao tiếp của tôi cũng có phần thuận lợi. Đường đi ngày một xa, bản làng ngày một heo hút.